Chủ nhật, 27 Tháng 4 2014 05:29
Bảo vệ quyền công dân trong tư pháp quốc tế của EU và Việt Nam
Share on Facebook

BẢO VỆ QUYỀN CÔNG DÂN TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ VIỆT NAM

 

1.Bảo vệ quyền công dân trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

 Trong sự phát triển quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa các quốc gia, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tồn tại một cách khách quan,do đó,các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là một phần quan trọng trong pháp luật của mỗi quốc gia và trong pháp luật quốc tế. Điều chỉnh hiệu quả các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ mà còn góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa các quốc gia.

Việc bảo vệ quyền công dân trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:

Thứ nhất, Quốc gia bằng pháp luật công nhận và đảm bảo cơ chế bảo vệ các quyền dân sự (hiểu theo nghĩa rộng) của người nước ngoài khi cư trú tại lãnh thổ của quốc gia mình hoặc khi xác lập giao dịch dân sự với công dân, tổ chức của nước mình.

Cũng cần khẳng định rằng, các quyền con người được quy định không chỉ trong pháp luật của mỗi quốc gia mà còn trong pháp luật quốc tế. Xét từ góc độ pháp luật quốc tế, có hai Điều ước quốc tế trực tiếp quy định về quyền dân sự, chính trị và quyền kinh tế của con người. Thứ nhất, Công ước về các quyền dân sự, chính trị được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào ngày 16/12/1966, quy định các quyền dân sự và chính trị cơ bản của con người. Trong đó, Công ước yêu cầu các quốc gia ký kết phải thực hiện các biện pháp cần thiết để hiện thực hóa các quyền được quy định trong Công ước cho "tất cả mọi người sống trong lãnh thổ và thuộc thẩm quyền tài phán của quốc gia, không phân biệt chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác”[1]. Công ước cũng dành từ Điều 6 – Điều 27 liệt kê các quyền dân sự chính trị cơ bản của con người. Thứ hai, Công ước quốc tế về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội được ký kết ngày 6/12/1966[2]. Tại Điều 2 Công ước quy định mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến hành các biện pháp, một cách riêng rẽ và thông qua sự hợp tác giúp đỡ quốc tế, đặc biệt là các biện pháp kinh tế và kỹ thuật, sử dụng tới mức tối đa các tài nguyên sẵn có của mình, nhằm đạt được việc bảo đảm ngày càng đầy đủ các quyền được thừa nhận trong Công ước này bằng mọi biện pháp thích hợp, đặc biệt kể cả việc thông qua những biện pháp lập pháp. Các quốc gia thành viên cam kết bảo đảm rằng các quyền được nêu trong Công ước này sẽ được thực hiện không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc các quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác”.Bên cạnh đó, Công ước quy định nghĩa vụ quốc gia thành viên trong việc ghi nhận và đảm bảo các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội như quyền làm việc, quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền học tập…

Các quy định trên cho thấy, các Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên cam kết bảo đảm các quyền được nêu trong Công ước sẽ được ghi nhận và thực hiện không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản…Điều đó có nghĩa là các quyền công dân được quy định cho công dân của nước sở tại cũng sẽ được dành cho người nước ngoài khi cư trú tại quốc gia sở tại. Thực hiện nghĩa vụ cam kết trong các Công ước quốc tế trên, pháp luật các nước đều có quy định trong pháp luật các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa của công dân và có các biện pháp bảo vệ các quyền này. Tuy nhiên, các quốc gia dành cho người nước ngoài các quyền trên ở mức độ nào? Có những hạn chế đặc biệt nào không hoàn toàn thuộc về quyền tự quyết của quốc gia. Vì vậy, việc ghi nhận và bảo vệ quyền cho người nước ngoài trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền của người nước ngoài.

 

Tại Việt Nam, thừa nhận và bảo vệ các quyền của người nước ngoài tại Việt Nam được quy định trước hết là trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, theo đó Nhà nước bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa (Điều 25) và Nhà nước bảo hộ tài sản và các quyền lợi chính đáng khác của người nước ngoài cư trú ở Việt Nam (Điều 81). Các quy định này được cụ thể hóa trong rất nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam như Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, BLDS…

 

Thứ hai, đảm bảo quyền bình đẳng trước tòa án và cơ quan tài phán khác cho người nước ngoài khi tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Quyền bình đẳng trước tòa án, trước cơ quan tài phán khác là một trong những quyền dân sự chính trị cơ bản của con người, là cơ sở nền tảng cho việc quy định và thực thi các quy định về các quyền của con người[3], được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật của nhiều quốc gia. Quyền bình đẳng trước cơ quan tài phán, bao gồm tòa án được hiểu ở các nội dung cơ bản sau: (i) tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc yêu cầu tòa án hoặc cơ quan tài phán khác bảo vệ các quyền và lợiích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm; (ii) tất cả mọi người phải được đối xử bình đẳng trước tòa án và cơ quan tài phán. Các cơ quan tài phán có nhiệm vụ phân xử các tranh chấp giữa các bên hay xét xử một vụ án hình sự phải công bằng, khách quan, không được phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì như tôn giáo, nguồn gốc dân tộc, địa vị xã hội...; (iii) các bên có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, vật chứng...[4]

Trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, câu hỏi đặt ra là người nước ngoài có được pháp luật của nước sở tại bảo vệ quyền bình đẳng trước tòa án không? Họ có quyền khởi kiện và tham gia vụ kiện khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại không? Họ có bình đẳng về các quyền tố tụng như công dân của nước sở tại hay không? Hoàn toàn có cơ sở khi nêu ra các câu hỏi trên. Bởi lẽ, tâm lý chung của người nước ngoài khi tham gia vào tố tụng tại nước sở tại là sự e ngại tòa án của nước sở tại sẽ không thực sự công bằng và khách quan khi xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, e ngại tòa án của nước sở tại sẽ nghiêng về bảo vệ quyền lợi cho công dân của nước mình. Ở góc độ này, các quy phạm pháp luật của tư pháp quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc quy định và đảm bảo cho người nước ngoài quyền được khởi kiện tại tòa án của một nước khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, quyền bình đẳng trước tòa án trong quá trình tham gia tố tụng.

Thứ ba, đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật. Quyền bình đẳng trước pháp luật được xem là quyền cơ bản nhất của mỗi con người, là cơ sở nền tảng cho việc quy định các quyền con người khác. Xét cho cùng, các quyền cơ bản của con người chỉ thực sự được đảm bảo nếu thực hiện đúng nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Đây cũng là cơ sở nền tảng cho việc quy định về quyền bình đẳng trước tòa án và các cơ quan tài phán khác.Đặc biệt, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thường liên quan đến ít nhất là hai quốc gia với hai hệ thống pháp luật có cách tiếp cận và tư duy pháp lý khác nhau, nội dung các quy định của pháp luật là khác nhau, thậm chí có thể là hoàn toàn trái ngược nhau. Điều này dẫn đến hệ quả là việc áp dụng hệ thống pháp luật này có thể đưa đến một kết quả khác hẳn với việc áp dụng hệ thống pháp luật khác. Chính vì vậy, khi tham gia vào các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có ít nhất hai vấn đề mà các bên sẽ đặc biệt quan tâm: (i), các quyền và nghĩa vụ của họ (đặc biệt là của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài) sẽ được bảo vệ như thế nào? (ii), hệ thống pháp luật của nước nào sẽ được áp dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà họ tham gia cũng như trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các bên?[5] Đặt giả thiết, trong việc giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, các nước chỉ quy định áp dụng pháp luật của chính nước có tòa án trong mọi trường hợp, và trên thực tế tòa án chỉ áp dụng pháp luật của nước mình thì rõ ràng một trong những quyền cơ bản của con người: quyền bình đẳng trước pháp luật đã không được đảm bảo. Vì quyền bình đẳng trước pháp luật cần được hiểu ở nội hàm rộng, không chỉ ở khía cạnh tất cả các cá nhân, không phân biệt về nguồn gốc dân tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, giai cấp, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị xã hội đều có các quyền và nghĩa vụ công dân như nhau, đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau khi có hành vi vi phạm pháp luật mà còn phải được hiểu ở khía cạnh, trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, các hệ thống pháp luật bình đẳng với nhau, do đó đều có khả năng và cơ hội như nhau trong việc được áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự có sự tham gia của công dân, pháp nhân các nước đó. Ở nội dung thứ hai này, các quy phạm xung đột trong pháp luật quốc tế và trong pháp luật quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của công dân khi tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Vì với việc ban hành các quy phạm xung đột, nhà nước đã chính thức khẳng định khả năng áp dụng các hệ thống pháp luật khác nhau, bao gồm cả pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế hoặc pháp luật của chính nước mình trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Điều này không chỉ tạo tâm lý yên tâm cho các bên khi tham gia vào các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà còn là cơ sở pháp lý vững chắc để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ được bảo vệ một cách khách quan, thúc đẩy sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các quốc gia một cách bên vững.          

Các quy định của tư pháp quốc tế các nước, trong đó có Việt Nam đều hướng tới giải quyết một cách có hiệu quả nhất những nhiệm vụ trên.

 

  1. 2.Bảo vệ quyền công dân trong tư pháp quốc tế Liên minh Châu Âu và pháp luật Việt Nam

2.1.         Bảo vệ quyền công dân trong tư pháp quốc tế Liên minh Châu Âu và pháp luật Việt Nam: so sánh

Tư pháp quốc tế Liên minh Châu Âu là tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật do Liên minh Châu Âu xây dựng và ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có hiệu lực áp dụng thống nhất và trực tiếp đối với các thể nhân, quốc gia thành viên và các cơ quan, thiết chế của Liên minh Châu Âu.

Hiện nay, về vấn đề bảo vệ quyền công dân, tư pháp quốc tế Liên minh Châu Âu đã có những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong đó phải kể đến những văn bản quy phạm pháp luật điển hình, bao gồm: Nghị định Rome I về luật áp dụng cho các nghĩa vụ trong hợp đồng; Nghị định Rome II về luật áp dụng cho các nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng; Nghị định Rome III điều chỉnh vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài và Nghị định Brussels IV điều chỉnh vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài.

Nghị định Rome I

Nghị định Rome I ( tên đầy đủ là Regulation (EC) No 593/2008 of the European Parliament and of the Council of 17 June 2008 on the law applicable to contractual obligations), là Nghị định điều chỉnh về việc lựa chọn pháp luật tại Liên minh Châu Âu. Nghị định được xây dựng dựa trên Công ước về Luật áp dụng cho nghĩa vụ trong hợp đồng năm 1980 (Công ước Viên 1980) và cũng nhằm để thay thế cho công ước này. Nghị định Rome I có hiệu lực với tất cả các nước thành viên của Liên minh Châu Âu trừ Đan Mạch, áp dụng cho các hợp đồng được giao kết từ ngày 18 tháng 12 năm 2009.

Nghị định được xây dựng nhằm điều chỉnh các nghĩa vụ hợp đồng trong lĩnh vực dân sự và thương mại. Nội dung của Nghị định không áp dụng cho các vấn đề sau: các vấn đề liên quan đến lợi nhuận, thuế quan, việc hành chính, việc chứng minh cũng như về luật hình thức; năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân; quan hệ gia đình; chế độ tài sản trong hôn nhân; các công cụ chuyển nhượng như hối phiếu, kỳ phiếu, séc; trọng tài và việc lựa chọn toà án; luật công ty và các chủ thể khác có hoặc không có tư cách pháp nhân; việc ràng buộc nghĩa vụ của người quản lý hoặc của công ty đối với bên thứ ba; uỷ thác; những giao dịch diễn ra trước khi hợp đồng được ký kết; hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp quy định tại Điều 2 của Chỉ thị 2002/83/EC liên quan đến đảm bảo chất lượng cuộc sống.

Nội dung của Rome I tập trung vào ba vấn đề cơ bản trong việc xác định pháp luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng, bao gồm: quy địnhquyền tự do lựa chọn luật áp dụng của các bên tham gia hợp đồng; đưa ra nguyên tắc xác định luật áp dụng cho hợp đồng trong trường hợp các bên không chọn luật; và các nguyên tắc chọn luật cụ thể cho một số loại hợp đồng nhất định.

Theo đó, các bên tham gia hợp đồng có quyền tự do lựa chọn pháp luật áp dụng, luật này có thể được áp dụng để điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng. Trong trường hợp các bên cùng thoả thuận thì luật áp dụng có thể được thay đổi bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, nếu luật được chọn là luật của một quốc gia không có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng, thì những quy định của luật nơi có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng vẫn phải được tôn trọng.

Trong trường hợp các bên không chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ, nhượng quyền thương mại, phân phối, luật áp dụng sẽ được xác định dựa vào quốc gia nơi cư trú của các chủ thể chính thực hiện hợp đồng. Đối với hợp đồng liên quan đến bất động sản, pháp luật của nước nơi có tài sản này được áp dụng, ngoại trừ trong các trường hợp thuê nhà riêng tạm thời (tối đa sáu tháng liên tục). Trường hợp bán hàng đấu giá, pháp luật của quốc gia của cuộc đấu giá sẽ được áp dụng. Đối với các công cụ tài chính nhất định được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật duy nhất, luật áp dụng sẽ là chính luật đó. Nếu không có, hoặc có nhiều hơn một trong những nguyên tắc trên có thể được áp dụng cho một hợp đồng, luật áp dụng sẽ được xác định dựa vào quốc gia nơi cư trú của chủ thể chính thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, nếu hợp đồng có mối liên hệ gắn bó với một quốc gia khác với các quốc gia được xác định bởi các nguyên tắc trên, thì luật pháp của quốc gia đó sẽ được áp dụng. Điều này cũng được áp dụng khi không thể xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng.

Bên cạnh đó, còn có những nguyên tắc cụ thể khác cũng được Rome I xây dựng nhằm điều chỉnh từng loại hợp đồng riêng biệt. Như vậy có thể thấy Nghị định Rome I đã ghi nhận cho các chủ thể quyền tự do lựa chọn pháp luật để áp dụng cho hợp đồng. Và trong những trường hợp không xác định được hệ thống pháp luật cụ thể thì luật nơi có mối quan hệ gắn bó nhất sẽ được áp dụng.

 

Nghị định Rome II

Nghị định này quy định các quy tắc xung đột pháp luật áp dụng đối với các nghĩa vụ ngoài hợp đồng trong các vấn đề dân sự và thương mại, bao gồm cả trách nhiệm sản phẩm, negotiorum gestio (hành vi liên quan đến công việc của người khác) và culpa in contrahendo (nghĩa vụ ngoài hợp đồng phát sinh từ giao dịch trước khi kết thúc hợp đồng). Nghị định được áp dụng từ 11 tháng 1 năm 2009 ở tất cả các nước thành viên, ngoại trừ Đan Mạch.

Dựa vào quy định của Nghị định Rome II thì theo thứ tự ưu tiên, luật áp dụng để giải quyết các nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng sẽ là: pháp luật của nước nơi xảy ra thiệt hại; pháp luật của nước là nơi cư trú thường xuyên của các bên khi xảy ra thiệt hại; pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với vụ việc. Ngoài ra còn có những quy định cụ thể dành cho một số lĩnh vực, ví dụ như trách nhiệm sản phẩm và sở hữu trí tuệ, và các lĩnh vực nhất định được loại trừ, đặc biệt là doanh thu, thuế quan và các vấn đề hành chính, trách nhiệm của Nhà nước, và các mối quan hệ hôn nhân và gia đình.

Mặc dù theo nguyên tắc chung, pháp luật áp dụng cho một nghĩa vụ ngoài hợp đồng phát sinh từ một hành vi vi phạm là pháp luật của quốc gia nơi xảy ra thiệt hại, không phân biệt quốc gia hay các quốc gia mà hậu quả gián tiếp của sự việc có thể xảy ra. Tuy nhiên, có hai ngoại lệ quan trọng: (i) Khi bị đơn và nguyên đơn đều cư trú thường xuyên trong cùng một quốc gia tại thời điểm xảy ra thiệt hại, luật của nước đó sẽ được áp dụng. (ii) Khi sự việc có mối liên hệ gắn bó với một quốc gia khác (ví dụ như xuất phát từ một mối quan hệ có từ trước giữa các bên, chẳng hạn như hợp đồng), luật của nước đó sẽ được áp dụng. Và một điểm quan trọng khác cũng cần lưu ý là Nghị định này cho phép tự do chọn luật. Cụ thể, các bên có thể tự do lựa chọn luật áp dụng cho nghĩa vụ ngoài hợp đồng bằng cách thoả thuận tại thời điểm sau khi có thiệt hại xảy ra hoặc trước khi có thiệt hại xảy ra. Sự lựa chọn phải rõ ràng hoặc có thể chứng minh được từ những hoàn cảnh cụ thể, và không được làm phương hại đến các quyền của bất kỳ bên thứ ba nào. Sự tự do của sự lựa chọn luật sẽ không được áp dụng đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, và cũng không thể được áp dụng khi tất cả các yếu tố liên quan đến vụ việc có mối liên hệ gắn bó với một quốc gia khác, không nằm trong sự lựa chọn của các bên. Tương tự như vậy, pháp luật của Cộng đồng sẽ được ưu tiên áp dụng so với pháp luật của một nước không thuộc Liên minh Châu Âu mà các bên đã lựa chọn, trong trường hợp tất cả các yếu tố liên quan đến vụ việc đều diễn ra ra tại một trong các nước thành viên của Liên minh Châu Âu.

Những vấn đề sau đây sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định Rome II: cơ sở và phạm vi trách nhiệm, bao gồm cả những người có thể chịu trách nhiệm; các căn cứ để miễn trách nhiệm; hạn chế hoặc phân bổ trách nhiệm; sự tồn tại, tính chất, đánh giá thiệt hại và các biện pháp khắc phục bảo hộ; các biện pháp mà tòa án có thể thực hiện để ngăn chặn hoặc chấm dứt thương tích hoặc thiệt hại và định ra chi phí bồi thường (trong giới hạn của pháp luật tố tụng quốc gia); việc chuyển nhượng quyền đòi bồi thường, bao gồm cả thừa kế; người có quyền nhận bồi thường thiệt hại cá nhân kéo dài; trách nhiệm đối với các hành vi của người khác; chấm dứt các nghĩa vụ và các quy định liên quan đến quy định hoặc hạn chế dựa trên một khoảng thời gian.

 

Nghị định Rome III

Nghị định Rome III được xây dựng từ ngày 20 tháng 12 năm 2010 và chính thức có hiệu lực từ ngày 21 tháng 06 năm 2012. Nghị định được áp dụng để xác định pháp luật áp dụng trong các vụ việc ly hôn và ly thân theo pháp luật. Việc huỷ bỏ hôn nhân sẽ không được Nghị định này điều chỉnh và sẽ được giải quyết theo pháp luật của mỗi nước thành viên Liên minh Châu Âu.

Nghị định Rome III được phân biệt với Nghị định Brussels II bis. Theo đó, Rome III chỉ xác định pháp luật áp dụng trong trường hợp ly hôn hoặc ly thân. Những vấn đề phái sinh trong hôn nhân như tên của vợ hoặc chồng, tài sản trong hôn nhân, trách nhiệm của cha mẹ, nghĩa vụ cấp dưỡng, uỷ thác hoặc những thừa kế phát sinh từ ly hôn hoặc ly thân sẽ không được Rome III điều chỉnh. Thêm vào đó, Rome III cũng không xác định pháp luật áp dụng để điều chỉnh những vấn đề khởi điểm như năng lực kết hôn hay sự tồn tại, hiệu lực và công nhận hôn nhân.

Nghị định Rome III giới hạn quyền tự do chọn luật của các đương sự. Trong trường hợp họ không có khả năng chọn luật hoặc pháp luật được chọn không có hiệu lực, thì Nghị định đã có những quy định nhằm chỉ ra hệ thống pháp luật có thể được áp dụng để điều chỉnh việc ly hôn hoặc ly thân hợp pháp. Theo Điều 5 Nghị định Rome III, các đương sự có thể lựa chọn những hệ thống pháp luật sau đây để điều chỉnh việc ly hôn và ly thân hợp pháp: pháp luật của nước nơi 2 vợ chồng cư trú thường xuyên tại thời điểm thoả thuận ly hôn; hoặc pháp luật của nước nơi cuối cùng 2 vợ chồng cùng cư trú thường xuyên, trong trường hợp chỉ còn 1 trong 2 cư trú tại nơi đó vào thời điểm thoả thuận ly hôn; hoặc pháp luật của nước nơi cả 2 vợ chồng mang quốc tịch tại thời điểm thoả thuận ly hôn; hoặc Luật toà án. Nếu một trong 2 vợ chồng hoặc cả 2 vợ chồng mang nhiều quốc tịch thì họ có thể lựa chọn pháp luật của bất cứ quốc gia nào trong những quốc gia mà họ mang quốc tịch để áp dụng. Thoả thuận chọn luật có thể được thành lập và sửa đổi bất cứ lúc nào nhưng chậm nhất là khi xác định được toà án thụ lý vụ việc. Tuy nhiên trong suốt quá trình tố tụng vẫn có thể thoả thuận lựa chọn nếu luật toà án cho phép và phải tuân theo nhưng điều kiện của luật đó.

 

Nghị định Brussels IV

Nghị định Brussels IV có hiệu lực từ ngày 17 tháng 8 năm 2012 và sẽ được áp dụng đối với di sản của các cá nhân chết từ ngày 17 tháng 08 năm 2015 trở về sau. Nghị định có thể được áp dụng cho bất cứ ai có tài sản tại các nước Brussels IV cũng như những ai cư trú thường xuyên tại những nước này vào thời điểm chết (hoặc trong một số trường hợp nhất định là trong vòng 5 năm trước khi người đó chết), không cần xét tài sản đó đang ở nước nào. Nghị định được xây dựng nhằm mục đích xoá bỏ những hạn chế trong hành động của các chủ thể đối với di sản ở nước ngoài; cho phép công dân của Liên minh Châu Âu tự quyết định việc để lại di sản; bảo vệ quyền của những người thừa kế, những người thừa kế theo di chúc và những thành viên khác trong gia đình, những người chủ nợ của di sản. Nghị định không áp dụng cho Vương quốc Anh, Ireland và Đan Mạch.

Nghị định Brussels IV áp dụng đối với việc thừa kế di sản là động sản và bất động sản. Tuy nhiên có một số vấn đề không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định, bao gồm thuế và những vấn đề liên quan đến chế độ tài sản trong hôn nhân. Các quyền tài sản, lợi tức và tài sản được hình thành hoặc chuyển nhượng không từ việc thừa kế (ví dụ như được tặng cho hoặc kiêm hưởng) sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này. Bên cạnh đó, Nghị định cũng sẽ không điều chỉnh những vấn đề về uỷ thác, trừ việc chuyển giao tài sản và xác định người thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.

Theo Nghị định Brussels IV, Toà án của quốc gia nơi cư trú của người để lại di sản, sẽ có thẩm quyền giải quyết các vấn đề thừa kế. Tuy nhiên, trong trường hợp người để lại di sản lựa chọn pháp luật của nước mà họ mang quốc tịch để điều chỉnh vấn đề này thì Toà án nơi người để lại di sản mang quốc tịch cũng có thẩm quyền giải quyết. Nếu người để lại di sản lựa chọn pháp luật nơi người đó mang quốc tịch để điều chỉnh việc thừa kế, thì sự lựa chọn này nên được thể hiện qua di chúc. Di chúc có thể ở hình thức minh thị hoặc mặc thị. Người để lại di sản có thể lựa chọn pháp luật của bất kỳ nước nào họ mang quốc tịch tại thời điểm tiến hành chọn luật hoặc tại thời điểm chết.

Nếu người để lại di sản không thường trú tại một nước tham gia Nghị định này vào thời điểm chết, thì Toà án của bất kỳ nước nào có di sản sẽ có thẩm quyền giải quyết toàn bộ việc thừa kế (trong trường hợp người để lại di sản mang quốc tịch của nước đó vào thời điểm chết, hoặc trong trường hợp người này thường trú tại nước đó trong vòng 5 năm trước khi chết). Nếu không thể áp dụng trường hợp nào kể trên thì Toà án của các nước tham gia Brussels IV, nơi có di sản, sẽ có thẩm quyền giải quyết các di sản đó.

Bên cạnh đó, pháp luật của nước nơi người để lại di sản thường trú vào thời điểm chết (không nhất thiết phải là nước gia nhập Brussels IV) sẽ được áp dụng đối với các vấn đề về di sản, trừ khi người để lại di sản có mối quan hệ gắn bó nhất với một nước khác hoặc trước đó người để lại di sản đã lựa chọn pháp luật nơi người đó mang quốc tịch để điều chỉnh.

 

Nghị định Brussels I

Nghị định Brussels được thông qua ngày 22/12/2000, quy định về thẩm quyền của tòa án và vấn đề công nhận, thi hành phán quyết về dân sự, thương mại của tòa án (Brussel Regulation No 44/2001 of 22 December 2000 on Jurisdiction and the recognition and enforcement of Judgement in Civil and Commercial matters - Nghị định Brussel I). Nghị định Brussel I là kết quả của việc thống nhất, tổng hợp, sửa đổi bổ sung các quy định của Công ước Brussel 1968 và Công ước Lugano 1988 và thay thế hai công ước này. Nghị định Brussel I có hiệu lực vào ngày 01/03/2002, gồm 8 chương, 76 điều và 6 phụ lục kèm theo.

Nghị định Brussels I giải quyết hai vấn đề cơ bản: (i) đưa ra các nguyên tắc xác định thẩm quyền của tòa án đối với các vấn đề dân sự, thương mại; (ii) các vấn đề về công nhận và cho thi hành bản án của tòa án về các vấn đề dân sự, thương mại. Nguyên tắc cơ bản trong xác định thẩm quyền của tòa án quốc gia thành viên là dựa vào nơi cư trú của bị đơn.Theo điều 2 của Nghị định Brussels I, tòa án nơi bị đơn cư trú -không phụ thuộc vào quốc tịch của bị đơn- hoàn toàn có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định Brussels I, ngoại trừ một số trường hợp quy định tại các điều từ mục 2 đến mục 7 của Mục II. Ngoài quy định về thẩm quyền chung, Phần 2 Mục II Nghị định Brussels I quy định về một số trường hợp không áp dụng nguyên tắc nơi cư trú của bị đơn để xác định thẩm quyền của tòa án. Tuy nhiên cũng cần phải hiểu là quy định này không hạn chế quyền của nguyên đơn khởi kiện bị đơn tại tòa án nước nơi bị đơn cư trú theo nguyên tắc chung. Nghị định Brussels cũng quy định đối với trường hợp một vụ việc có nhiều bị đơn cư trú tại các nước khác nhau, tòa án nước thành viên nơi một trong số bị đơn cư trú sẽ có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, tòa án chỉ có thẩm quyền trên khi xét thấy việc giải quyết từng vấn đề riêng lẻ không đạt được kết quả như khi giải quyết toàn bộ các yêu cầu có liên quan. Bên cạnh việc quy định các căn cứ xác định thẩm quyền của tòa án, Nghị định Brussels Icòn cho phép các bên lựa chọn tòa án theo các điều kiện được quy định tại Điều 24, 25 của Nghị định Brussels I.Bên cạnh thẩm quyền chung, Nghị định Brussels I tại Điều 22 Phần 6 chương II còn quy định về các trường hợp thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án một quốc gia thành viên, không dựa vào nguyên tắc nơi cư trú của bị đơn và các bên không được thỏa thuận để thay đổi thẩm quyền này.

Như vậy, trong lĩnh vực pháp luật tố tụng, mặc dù không có điều khoản quy định trực tiếp về quyền tham gia tố tụng của người nước ngoài, quyền bành đẳng trước tòa án nhưng toàn bộ nội dung Nghị định Brussels I đã thể hiện được rất rõ ràng các vấn đề đó.

 

Góc so sánh: So sánh giữa pháp luật EU và pháp luật Việt Nam, nhìn một cách tổng quát có thể thấy rằng, Tư pháp quốc tế Việt Nam đã quy định các quyền dân sự (hiểu theo nghĩa rộng) cơ bản của người nước ngoài trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.

Trong lĩnh vực tố tụng, một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS)Việt Nam được quy định trong Điều 8: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác.

Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”.

Cụ thể hóa nguyên tắc này, Điều 406 BLTTDS Việt Nam quy định: “Công dân nước ngoài, người không quốc tịch, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế (sau đây gọi chung là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài) có quyền khởi kiện đến Toà án Việt Nam để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm hoặc có tranh chấp.Khi tham gia tố tụng dân sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài có quyền, nghĩa vụ tố tụng như công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam”. Điều 407 BLTTDS quy định nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng đối với năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của công dân nước ngoài, người không quốc tịch. Điều 408 BLTTDS quy định nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng đối với năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế trong tố tụng dân sự tại Việt Nam. Ngoại ra, BLTTDS còn dành riêng một chương: Chương 35 quy định về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Như vậy, người nước ngoài hoàn toàn có quyền khởi kiện vụ án dân sự tại tòa án Việt Nam, quyền tham gia tố tụng tại tòa án Việt Nam và khi tham gia tố tụng họ có các quyền tố tụng bình đẳng với công dân Việt Nam.

Tuy nhiên, khác với pháp luật EU, BLTTDS Việt Nam không trực tiếp ghi nhận quyền thỏa thuận chọn tòa án, bao gồm tòa án Việt Nam và tòa án nước ngoài của các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Các căn cứ xác định thẩm quyền của tòa án Việt Nam được quy định tại Điều 410, 411 BLTTDS cũng chưa thật hợp lý, chưa thực sự bảo vệ được quyền của người nước ngoài trong một số quan hệ nhất định. Đơn cử, quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 410 BLTTDS về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với vụ án ly hôn nếu “một trong các đương sự là công đân Việt Nam” dẫn đến cách hiểu là tòa án Việt Nam không có thẩm quyền giải quyết vụ án ly hôn giữa các bên đều là người nước ngoài và trên thực tế, tòa án Việt Nam đã từng từ chối thụ lý vụ án ly hôn giữa hai vợ chồng đều mang quốc tịch Mỹ, cư trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn. Hoặc một ví dụ khác, quy định về thẩm quyền riêng biệt của tòa án đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển mà người vận chuyển có trụ sở chính hoặc chi nhấnh tại Việt Nam đã loại trừ quyền chọn tòa án nước ngoài giải quyết các tranh chấp hợp đồng trên. Trong khi đó, đối với hợp đồng vận chuyển này, việc thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia hay lợi ích công cộng do đó không cần thiết quy định về thẩm quyền riêng biệt.

Trong việc xác định pháp luậtáp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, pháp luật Việt Nam đã xây dựng được quy phạm pháp luật xung đột nhằm xác định pháp luật áp dụng trong hầu hết quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Việc xây dựng các nguyên tắc chọn luật trong các quy phạm pháp luật xung đột đã cố gắng bảo vệ quyền của bên yếu thế, đảm baỏ mối quan hệ gắn bó giữa quan hệ dân sự với hệ thống pháp luật mà quan hệ đó có mối gắn bó nhât. Pháp luật Việt Nam cũng chính thức thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Mặt khác, pháp luật Việt Nam cho phép các bên quyền tự do chọn luật áp dụng trong một số quan hệ mặc dù quyền này còn một số hạn chế như sẽ được phân tích ở mục dưới đây của bài viết.Ngoài ra, tư pháp quốc tế Việt Nam còn thiếu rất nhiều các quy phạm xung đột nhằm hướng dẫn xác định pháp luật áp dụng trong nhiều loại hợp đồng đặc thù như hợp đồng License, hợp đồng tiêu dùng, hợp đồng phân phối…, trong các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như quan hệ sở hữu trí tuệ, quan hệ bảo hiểm…

 

2.2.         Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ quy định của tư pháp quốc tế Liên minh Châu Âu

Tôn trọng và mở rộng tối đa quyền tự do định đoạt của các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

Xuất phát từ tính chất của các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là các quan hệ tư, được hình thành trên nguyên tắc nền tảng là sự thỏa thuận giữa các bên, tư pháp của nhiều quốc gia quy định quyền tự do thỏa thuận chọn luật áp dụng của các bên trong các quan hệ này. Tuy nhiên, tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, Liên bang Nga[6]… chỉ cho phép các bên quyền chọn luật áp dụng nhằm điều chỉnh quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài chứ không phải các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung. Điều này chưa thực sự hợp lý, chưa đảm bảo được nguyên tắc tự do ý chí của các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Vì xét cho cùng, các quan hệ dân sự dù có yếu tố nước ngoài hay không vẫn là các quan hệ “tư”, được xác lập trên hệ thống bình đẳng thỏa thuận. Việc cho phép các bên trong các quan hệ này được quyền chọn pháp luật áp dụng không ảnh hưởng đến lợi ích công cộng, lợi ích xã hội, lợi ích của nhà nước màn còn mang ý nghĩa lớn lao trong việc bảo vệ quyền cho các bên, đặc biệt đối với bên nước ngoài.

Liên minh Châu Âu (EU) là những nước tiên phong trong việc mở rộng quyền tự do chọn luật của các bên trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, không giới hạn ở quan hệ hợp đồng. Và ngay trong quan hệ hợp đồng, pháp luật EU cũng mở rộng tối đa quyền chọn luật áp dụng của các bên, không chỉ giới hạn ở quyền và nghĩa vụ của các bên.

Trong lĩnh vực hợp đồng, Nghị định 593/EC của Nghị Viện và Hội Đồng Châu Âu ngày 17 tháng 06 năm 2008 về luật áp dụng trong quan hệ hợp đồng (Nghị định Rome 1) ngay tại Phần mở đầu đã khẳng định: “tự do thỏa thuận chọn luật áp dụng của các bên trong hợp đồng là một trong những nền tảng của hệ thống quy tắc xung đột pháp luật”. Điều 3 Nghị định Rome 1 quy định cụ thể hơn: “hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật do các bên thỏa thuận lựa chọn. Sự lựa chọn phải được thể hiện rõ ràng hoặc được chứng minh rõ ràng bởi các điều khoản trong hợp đồng hoặc tùy theo từng trường hợp cụ thể”. Với quy định này, Nghị định Rome 1 đã thể hiện sự tôn trọng ý chí của các bên trong hợp đồng, cho phép các bên trong hợp đồng được tự do thỏa thuận chọn luật để điều chỉnh hợp đồng của mình. Không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận sự tự do thỏa thuận chọn luật của các bên trong hợp đồng mà Nghị định Rome 1 còn đảm bảo tối đa quyền chọn luật khi quy định: (i) các bên có thể chọn luật để điều chỉnh toàn bộ hợp đồng hoặc chỉ điều chỉnh một phần của hợp đồng[7]; (ii) các bên trong hợp đồng, vào bất cứ lúc nào có thể thỏa thuận chọn một hệ thống pháp luật khác với hệ thống pháp luật đã lựa chọn trước đó để điều chỉnh hợp đồng cho dù kết quả của sự lựa chọn trước được thực hiện theo điều này hoặc theo những quy định khác của Nghị định Rome 1[8]. Tuy nhiên, mọi sự thay đổi về luật áp dụng được thực hiện sau khi ký kết hợp đồng sẽ chỉ được chấp nhận với điều kiện sự thay đổi đó không làm phương hại đến hiệu lực thông thường của hợp đồng hoặc không gây ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của bên thứ ba[9].

Phạm vi áp dụng của luật do các bên trong hợp đồng lựa chọn theo Nghị định Rome là khá rộng so với quan điểm truyền thống, Cụ thể, luật do các bên lựa chọn không chỉ được áp dụng đối với nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mà còn được áp dụng trong việc xác định sự tồn tại của hợp đồng, giá trị pháp lý của hợp đồng hoặc bất cứ điều khoản nào trong hợp đồng[10], hình thức hợp đồng.

Trong lĩnh vực trách nhiệm ngoài hợp đồng (Torts),Nghị định Rome của Liên minh Châu Âu về luật áp dụng cho các nghĩa vụ ngoài hợp đồng (Nghị định Rome II) được ban hành vào ngày 20/8/2007 và có hiệu lực chính thức vào ngày 11/1/2009. Một trong những quy định được đánh giá là tiến bộ của Nghị định Rome II là cho phép các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quyền chọn pháp luật áp dụng. Vấn đề này được khẳng định tại khoản 1 điều 14 – Rome II: “Các bên có thể thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng đối với nghĩa vụ ngoài hợp đồng: (a) Bằng một thỏa thuận sau khi sự kiện dẫn đến thiệt hại xảy ra; hoặc (b) Khi các bên đang tham gia vào một hoạt động thương mại, bằng một thỏa thuận thương lượng tự do trước khi sự kiện dẫn đến thiệt hại xảy ra.Sự lựa chọn phải được thể hiện với một sự chắc chắn rằng trong mọi trường hợp sẽ không làm phương hại đến các quyền của bên thứ ba.”

Góc so sánh:So sánh với pháp luật Việt Nam, Điều 773 BLDS Việt Nam không quy định quyền của các bên trong việc chọn bất kỳ hệ thống pháp luật nào nhằm điều chỉnh quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Điều 773 chỉ quy định một nguyên tắc rất chung là “Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của hành vi gây thiệt hại” mà không cho biết cụ thể trong trường hợp này, quyền xác định pháp luật áp dụng thuộc về chủ thể nào? Tòa án và các bên đương sự hay chỉ có tòa án mới có quyền này? Thiết nghĩ quan hệ bồi thường thiệt hại là những quan hệ dân sự khá phức tạp, pháp luật các nước quy định về căn cứ bồi thường, mức bồi thường rất khác nhau nhưng về bản chất, đây là quan hệ “tư”, vì vậy việc cho phép các bên thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng có thể sẽ giúp các bên thi hành bản án của Tòa án một cách tự nguyện và dễ dàng hơn. Điều này cũng góp phần đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Do đó, nên chăng pháp luật Việt Nam cần mở rộng quyền chọn luật áp dụng của các bên đến những quan hệ bồi thường thiệt hại ngàoi hợp đồng có yếu tố nước ngoài.

Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình

Điều 5 Nghị định Rome III của EU quy địnhcác bên có thể lựa chọn những hệ thống pháp luật sau đây để điều chỉnh việc ly hôn và ly thân hợp pháp:

-          Pháp luật của nước nơi 2 vợ chồng cư trú thường xuyên tại thời điểm thoả thuận ly hôn, hoặc

-          Pháp luật của nước nơi cuối cùng 2 vợ chồng cùng cư trú thường xuyên, trong trường hợp chỉ còn 1 trong 2 cư trú tại nơi đó vào thời điểm thoả thuận ly hôn, hoặc

-          Pháp luật của nước nơi cả 2 vợ chồng mang quốc tịch tại thời điểm thoả thuận ly hôn, hoặc

-          Luật toà án

Nếu một trong 2 vợ chồng hoặc cả 2 vợ chồng mang nhiều quốc tịch thì họ có thể lựa chọn pháp luật của bất cứ quốc gia nào trong những quốc gia mà họ mang quốc tịch để áp dụng. Thoả thuận chọn luật có thể được thành lập và sửa đổi bất cứ lúc nào nhưng chậm nhất là khi xác định được toà án thụ lý vụ việc. Tuy nhiên trong suốt quá trình tố tụng vẫn có thể thoả thuận lựa chọn nếu luật toà án cho phép và phải tuân theo nhưng điều kiện của luật đó.

Góc so sánh: Các quan hệ hôn nhân và gia đình là những quan hệ dân sự rất đặc thù, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của yếu tố phong ục, tập quán, của truyền thống văn hóa và đạo đức, do đó, tại nhiều quốc gia, các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình không được quyền chọn luật áp dụng nhằm điều chỉnh các quan hệ này. Việt Nam cũng nằm trong số những nước theo quan điểm này.

 

Trong lĩnh vực thừa kế, Theo Nghị định Brussels IV của EU, người để lại di sản thừa kế có quyền lựa chọn hệ thống pháp luật của quốc gia mà người đó mang quốc tịch tại thời điểm mà người đó lựa chọn hoặc vào thời điểm mà người đó qua đời để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến việc điều chỉnh vấn đề thừa kế[11].

Góc so sánh: Pháp luật Việt Namhiện hành không thừa nhận quyền chọn luật của các bên trong quan hệ thừa kế, đối với cả trường hợp thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Thiết nghĩ, xuất phát từ bản chất của quan hệ thừa kế là quan hệ dịch chuyển tài sản từ người chết cho người còn sông do đó cần tôn trọng tối đa ý chí của người có tài sản trong việc định đoạt tài sản của họ. Tuy nhiên, các quan hệ thừa kế đồng thời mang bản chất nhân thân và tài sản, trong đó chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa do đó việc cho phép người có di sản chọn luật áp dụng cần hết sức cân nhắc. Trong thời điểm này tại Việt Nam, chúng tôi cho rằng pháp luật chưa nên thừa nhận quyền chọn pháp luật của người để lại di sản thừa kế.

 

 

Bảo vệ quyền của bên yếu thế hơn trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật xung đột

Một trong những điểm thể hiện rất rõ tính nhân văn trong pháp luật của các quốc gia trong đó có Việt Nam và các nước trong EU là bảo vệ quyền lợi cho bên được coi là yếu thế hơn trong các quốc gia dân sự. Trong tư pháp quốc tế nguyên tắc này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng vì quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thường phát sinh giữa các chủ thể có quốc tịch khác nhau, do đó pháp luật được áp dụng nhằm điều chỉnh quan hệ đó không luôn luôn là pháp luật quốc gia của một trong các bên. Trong khi đó, việc xây dựng các quy phạm xung đột hoàn toàn thuộc về chủ quyền của mỗi quốc gia. Các quốc gia được quyền lựa chọn các nguyên tắc chọn luật áp dụng cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, phù hợp với điều kiện của quốc gia mình. Do đó, việc ưu tiên bảo vệ quyền của bên yếu thế hơn trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được thể hiện ở chỗ quy phạm xung đột sẽ đưa ra nguyên tắc chọn luật áp dụng là pháp luật của bên được coi là yếu thế trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Trong các quy phạm pháp luật của Tư pháp quốc tế Việt Nam, nguyên tắc chưa thực sự thể hiện rõ nét như trong các quy phạm pháp luật của tư pháp quốc tế của EU. Các quy định này có thể dễ dàng tòm thấy trong nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng đối với các hợp đồng đặc thù như hợp đồng lao động, hợp đồng tiêu dùng…

 

 

 

 



[1]Được quy định trong Điều 2 Công ước

[2] Việt Nam gia nhập hai Công ước này vào ngày 24 tháng 09 năm 1982.

[3]Lê Thị Nam Giang, Quyền bình đẳng trước cơ quan tài phán và trước pháp luật theo Công ước về các quyền dân sự, chính trị và theo pháp luật Việt Nam, bài tham luận tại Hội thảo Khoa Luật quốc tế, 2012.

[4]Lê Thị Nam Giang, Quyền bình đẳng trước cơ quan tài phán và trước pháp luật theo Công ước về các quyền dân sự, chính trị và theo pháp luật Việt Nam, tldd

 

[5]Lê thị Nam Giang, đề xuất xây dựng Luật Tu pháp quốc tế Việt Nam, Tạp chí Lập pháp, số 18/2013.

[6]Điều 769 BLDS Việt Nam, Điều 1210 BLDS Liên bang Nga năm 2001 chỉ thừa nhận quyền tự do chọn luật của các bên trong điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng.

 

[7]Khoản 1 Điều 3 Nghị định Rome 1

[8] Khoản 2 Điều 3 Nghị định Rome 1

[9] Khoản 2 Điều 3 Nghị định Rome 1

[10] Được quy định trong Điều 10 Nghị định Rome 1.

[11] Được quy định tại Điều 22Nghị định Brussels IV.

 

 

TS.Lê Thị Nam Giang

 

CN.Phùng Hồng Thanh